Thế giới có thể mất gần 25 triệu việc làm vì Covid-19
15:20 | 19/03/2020.
(LĐTĐ) Đánh giá sơ bộ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về ảnh hưởng của Covid-19 đến tình hình lao động trên toàn cầu cho thấy, tác động của dịch bệnh sẽ còn tiếp tục mở rộng, khiến hàng triệu người lao động sẽ phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và rớt xuống dưới chuẩn nghèo.
Theo ILO, cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do Covid-19 gây ra có thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu. Tuy nhiên, ILO cho rằng, nếu chúng ta có thể đưa ra giải pháp chính sách đối phó với tình hình này một cách đồng bộ ở tầm quốc tế – như thế giới đã chứng kiến trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009-2009, thì tác động của dịch bệnh đến tình trạng thất nghiệp toàn cầu có thể giảm đi đáng kể.
ILO kêu gọi thực hiện các biện pháp khẩn cấp, trên diện rộng và đồng bộ ở cả ba trụ cột: Bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, kích thích nền kinh tế và việc làm, và hỗ trợ việc làm và thu nhập.
Báo cáo đánh giá sơ bộ “Covid 19 và thế giới việc làm: Tác động và giải pháp” của ILO kêu gọi thực hiện các biện pháp khẩn cấp, trên diện rộng và đồng bộ ở cả ba trụ cột: Bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, kích thích nền kinh tế và việc làm, và hỗ trợ việc làm và thu nhập.
Những biện pháp này bao gồm mở rộng an sinh xã hội, hỗ trợ khả năng giữ việc làm (như giảm thời giờ làm việc, nghỉ phép có lương, và các trợ cấp khác), giảm thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.
Ngoài ra, báo cáo sơ bộ cũng đề xuất các biện pháp chính sách tài khóa và tiền tệ, hỗ trợ cho vay và hỗ trợ tài chính đối với một số ngành kinh tế cụ thể
Các kịch bản khác nhau
Dựa vào các kịch bản khác nhau mà tác động của Covid-19 có thể gây ra đối với tăng trưởng GDP toàn cầu, ước tính của ILO cho thấy số người thất nghiệp toàn cầu sẽ tăng từ 5,3 triệu người (kịch bản “thấp”) đến 24,7 triệu người (kịch bản “cao”).
Đây là số tăng thêm so với nền số lượng người thất nghiệp sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. Nhìn lại trong tương quan với năm 2008-2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi đó khiến 22 triệu người rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Tình trạng thiếu việc làm (không sử dụng được đầy đủ khả năng làm việc của người lao động có việc làm) cũng được dự báo sẽ tăng theo diện rộng, khi những tác động về kinh tế của Covid-19 sẽ khiến cả giờ làm và tiền lương bị giảm.
Nhóm lao động tự làm ở các nước đang phát triển – vốn thường là tấm đệm giúp làm nhẹ bớt độ xung của những tác động do những thay đổi đột ngột mang lại – thì lần này sẽ không còn tác dụng vì những hạn chế di chuyển đối với con người và hàng hóa.
Giảm số lượng việc làm đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập lớn cho người lao động. Nghiên cứu ước tính con số này tương đương từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. Điều này sẽ dẫn tới giảm tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, từ đó tác động tới triển vọng của doanh nghiệp và các nền kinh tế
Tình trạng lao động nghèo được dự báo cũng sẽ gia tăng đáng kể, bởi “việc giảm thu nhập do suy giảm các hoạt động kinh tế sẽ ảnh hưởng xấu tới những người lao động cận nghèo hoặc sống dưới chuẩn nghèo”.
ILO ước tính rằng sẽ có thêm từ 8,8 đến 35 triệu người lao động rơi vào đói nghèo trên khắp thế giới, so với mức ước tính trước đây cho năm 2020 (là giảm 14 triệu người )
Phản ứng chính sách nhanh chóng và đồng bộ
“Đây không còn chỉ là cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu nữa, mà Covid-19 cũng chính là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đối với thị trường lao động và kinh tế, tác động lớn tới con người,” Tổng Giám đốc ILO, ông Guy Ryder cho biết.
“Trong năm 2008, thế giới đã cho thấy sự đồng lòng để cùng nhau giải quyết các hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và đã có thể tránh được những tác động tồi tệ nhất. Đó chính là điều chúng ta cần lúc này,” ông Guy Ryder nói
Báo cáo của ILO cảnh báo rằng tác động của cuộc khủng hoảng việc làm tới một số nhóm lao động sẽ không đồng đều, và điều này sẽ làm gia tăng bất bình đẳng. Những người bị ảnh hưởng lớn bao gồm những người được bảo vệ ít hơn và làm những công việc được trả lương thấp, nhất là lao động trẻ và lao động cao tuổi. Phụ nữ và lao động di cư cũng thuộc nhóm này.
Lao động di cư dễ bị tổn thương vì họ thường không được hưởng đầy đủ quyền lao động và an sinh xã hội. Trong khi đó, phụ nữ thường chiếm số đông trong nhóm các công việc lương thấp và các ngành kinh tế bị tác động bởi dịch bệnh.
Tổng Giám đốc ILO kết luận: “Trong những lúc khủng hoảng như hiện nay, chúng ta có hai công cụ chính có thể giúp giảm bớt những tác động tiêu cực và giúp phục hồi niềm tin của công chúng.
Thứ nhất là đối thoại xã hội – đối thoại giữa người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức đại diện của họ. Công cụ này đóng vai trò quan trọng để xây dựng niềm tin của công chúng và hỗ trợ các biện pháp mà chúng ta cần thực hiện để vượt qua cuộc khủng hoảng này.
Thứ hai là các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các tiêu chuẩn này cung cấp một nền tảng đã được thử nghiệm và khẳng định dành cho các phản ứng chính sách tập trung vào việc phục hồi một cách bền vững và công bằng. Chúng ta cần làm tất cả mọi thứ cần thiết để giảm thiểu thiệt hại đối với con người trong thời điểm khó khăn này.”
ILO Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động Việt Nam
Giám đốc ILO Việt Nam Chang-Hee Lee cho rằng, Việt Nam đã làm rất tốt công tác kiềm chế dịch Covid-19. Sự quyết tâm được thể hiện rõ qua thông điệp của Thủ tướng rằng Chính phủ chấp nhận thiệt hại về kinh tế để bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho người dân.
Ông Chang-Hee Lee chia sẻ: “Khi cuộc chiến chống Covid-19 có khả năng sẽ còn kéo dài, bây giờ chính là lúc bắt đầu hành động để giảm thiểu những tác động tiêu cực của virus tới doanh nghiệp, việc làm và thu nhập của phần lớn người lao động, bao gồm cả khu vực kinh tế phi chính thức. ILO Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động để chiến đấu vì việc làm thỏa đáng tại thời điểm khủng hoảng toàn cầu nghiêm trọng về cả sức khỏe, thị trường lao động cũng như kinh tế hiện nay.”
Đại dịch Covid-19 khiến hơn 1/6 thanh niên thế giới mất việc làm
16:15 | 28/05/2020.
(LĐTĐ) Những phân tích mới nhất của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tác động của Covid-19 lên thị trường lao động hé lộ những hệ quả đặc biệt nặng nề đối với lao động trẻ, khi có tới hơn 1/6 thanh niên thế giới mất việc làm.
Theo ILO, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, hơn 1/6 lao động trẻ đã phải ngừng việc. Ảnh minh họa- B.D
ILO cho biết, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, hơn 1/6 lao động trẻ đã phải ngừng việc, còn với những người có thể tiếp tục công việc thì đã bị cắt giảm 23% số giờ làm việc.
Theo Báo cáo nhanh số 4 của ILO: Covid-19 và thế giới việc làm, thanh niên là đối tượng bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề bởi đại dịch, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên tăng nhanh đáng kể từ tháng 2 đã và đang tác động đến nữ nhiều hơn nam giới.
Đại dịch này tạo nên cú sốc đối với thanh niên ở ba phương diện. Đại dịch không chỉ hủy hoại việc làm của họ, mà còn làm gián đoạn việc học hành và đào tạo, cũng như dựng nên nhiều trở ngại lớn đối với những người muốn tham gia thị trường lao động hay muốn thay đổi công việc.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên năm 2019 ở mức 13,6% đã là cao hơn bất kỳ nhóm dân số nào khác. Khoảng 267 triệu thanh niên, tức 1/5 dân số thế giới, ở tình trạng không có việc làm mà cũng không tham gia học hành hoặc đào tạo (NEET). Những người trong độ tuổi từ 15 đến 24 nếu có việc làm thì cũng là những hình thức công việc dễ bị tổn thương như công việc được trả lương thấp, việc làm trong khu vực phi chính thức hay lao động di cư.
Tổng Giám đốc ILO – ông Guy Ryder cho biết: “Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh niên, đặc biệt là nữ giới, với tác động nặng nề hơn và nhanh chóng hơn so với các nhóm dân số khác. Nếu chúng ta không kịp thời hành động để cải thiện tình hình, hệ quả mà virus gây ra có thể sẽ kéo dài hàng thập kỷ. Nếu tài năng, năng lực của họ bị gạt ra ngoài lề do thiếu cơ hội và kỹ năng, điều đó sẽ hủy hoại tương lai của tất cả chúng ta và đặt ra những khó khăn cho công cuộc tái thiết một nền kinh tế tốt hơn giai đoạn hậu Covid-19.”
Báo cáo kêu gọi những phản ứng chính sách cấp bách, quy mô lớn và có mục tiêu để hỗ trợ thanh niên, trong đó bao gồm các chương trình đảm bảo việc làm/đào tao trên diện rộng ở các nước phát triển và các chương trình chú trọng tạo nhiều việc làm và đảm bảo việc làm ở những nền kinh tế có thu nhập thấp và trung bình.
Báo cáo cũng cập nhật số liệu ước tính về mức giảm thời giờ làm việc trong quý I và quý II năm 2020 so với quý IV năm 2019. Ước tính 4,8% thời giờ làm việc đã bị cắt giảm trong quý I năm 2020 (tương đương với khoảng 135 triệu việc làm toàn thời gian, giả định tuần làm việc 48 giờ). Con số này thể hiện mức điều chỉnh tăng nhẹ – khoảng 7 triệu việc làm – kể từ Báo cáo nhanh số 3. Dự báo mức tổn thất việc làm trong quý II không thay đổi và duy trì ở mức 305 triệu việc làm.
Xét theo khu vực, Châu Mỹ (13,1%) và châu Âu và Trung Á (12,9%) là những khu vực có tỷ lệ giảm số giờ làm việc cao nhất trong quý II.
Báo cáo một lần nữa kêu gọi các biện pháp cấp bách và tức thì nhằm hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp dựa trên chiến lược bốn trụ cột của ILO: Kích thích nền kinh tế và việc làm; hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập; bảo vệ người lao động tại nơi làm việc; dựa vào đối thoại xã hội để tìm ra giải pháp.
ILO cam kết hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy di cư lao động an toàn
12:03 | 11/06/2020.
(LĐTĐ) Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo di cư lao động an toàn hơn và có lợi hơn cho người lao động di cư. Theo ILO, việc sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thể là cơ hội để đảm bảo rằng người lao động di cư Việt Nam sẽ được thị trường toàn cầu đón nhận và quyền của người lao động sẽ được bảo vệ theo những tiêu chuẩn lao động quốc tế.
Dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng sửa đổi (Luật số 72) đã được Quốc hội đưa ra thảo luận vào ngày 10/6 và dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 10 năm 2020.
Lao động Việt Nam đăng ký dự thi tiếng Hàn đi làm việc tại Hàn Quốc
Sau khi thông qua, Luật sửa đổi sẽ có ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm ngàn người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, gia đình cũng như cộng đồng của họ và có tác động đến sự phát triển của di cư và công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế của Việt Nam trong tương lai.
Giám đốc ILO Việt Nam, TS Chang-Hee Lee, cho biết: “Việc quy định cấm áp dụng các loại phí tuyển dụng và chi phí liên quan một cách rõ ràng trong luật đóng vai trò rất quan trọng. Khi người lao động phải trả lệ phí và chi phí cao, cũng như phải vay nợ với lãi suất cao để đi làm việc ở nước ngoài, họ dễ trở thành nạn nhân của tình trạng bị lạm dụng, bóc lột, lệ thuộc vì nợ, lao động cưỡng bức và buôn bán người. Do đó, những lợi ích cho phát triển của di cư lao động không thể được đảm bảo một cách đầy đủ.”
Công ước về Các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân số 181 và các nguyên tắc chung và hướng dẫn triển khai hoạt động tuyển dụng công bằng của ILO nêu rõ “người lao động không phải gián tiếp hay trực tiếp chịu một phần hay toàn bộ lệ phí tuyển dụng hoặc chi phí liên quan” và “chủ sử dụng lao động, trong khu vực công cũng như tư, hoặc trung gian của họ, thay vì người lao động, phải chịu chi phí tuyển dụng”.
Việt Nam hiện có mức phí tuyển dụng và các chi phí liên quan ở mức cao được quy định trong luật. Theo một nghiên cứu mới của ILO, người lao động di cư không hiểu rõ cơ cấu lệ phí, chi phí hiện tại và quy định phức tạp về các mức phí theo luật định khiến người lao động khó biết được họ có phải đóng quá mức phí quy định hay không.
Nghiên cứu cho thấy tình trạng thu phí người lao động di cư trên mức trần theo quy định của luật còn phổ biến. Một số người được phỏng vấn cho biết họ đã phải trả từ 163 triệu đồng đến 372 triệu đồng (7.000-16.000 USD) để đi việc tại Nhật Bản và Đài Loan, Trung Quốc, cao hơn nhiều so với mức giới hạn theo quy định của pháp luật. Việc quy định các kênh di cư hợp thức trong luật với mức chi phí thấp hơn, mất ít thời gian và quy định đơn giản hơn sẽ giúp giải quyết vấn đề thu phí quá cao so với mức luật định, ngoài ra cũng dễ giám sát và thực thi hơn.
Bà Anna Olsen – chuyên gia về di cư lao động của ILO cho biết: “Các hành vi lạm dụng liên quan đến tình trạng lệ thuộc do nợ nần xuất phát từ việc trả các khoản phí tuyển dụng có thể dẫn đến nạn lao động cưỡng bức và buôn bán người.”
Trong một động thái liên quan, Quốc hội đã bỏ phiếu phê chuẩn Công ước cơ bản số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức của ILO vào ngày 8/6 vừa qua.
“Để giải quyết các vấn đề rủi ro liên quan đến lao động cưỡng bức, cần phải có một khung pháp lý quốc gia đầy đủ và các chính sách di cư lao động toàn diện dựa trên những tiêu chuẩn lao động quốc tế,” bà Olsen nhận định.
Theo chuyên gia, việc sửa đổi Luật số 72 mang đến cơ hội cho Việt Nam trong việc đáp ứng các nhu cầu từ nhiều chủ sử dụng lao động và doanh nghiệp đa quốc gia hàng đầu muốn thuê lao động di cư “được tuyển dụng không phí”, theo đó họ không phải trả bất cứ khoản chi phí nào để đi làm việc ở nước ngoài. Điều này sẽ giúp bảo vệ người lao động di cư tốt hơn và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Năm 2019, Việt Nam đã phái cử hơn 152.000 lao động di cư ra nước ngoài, hai phần ba trong số này là nam giới. Nhật Bản và Đài Loan, Trung Quốc đã tiếp nhận hơn 90% lao động di cư hợp thức của Việt Nam trong ba năm qua. Hàng năm, Chính phủ đều tăng các mục tiêu di cư lao động cấp quốc gia và cấp tỉnh, tích cực thúc đẩy di cư lao động như một phương tiện tạo công ăn việc làm, nâng cao kỹ năng cho người lao động và giảm nghèo.
Nỗ lực để khôi phục xuất khẩu lao động hậu Covid- 19
10:41 | 23/07/2020.
(LĐTĐ) Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang khẩn trương triển khai các biện pháp khôi phục hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau đại dịch Covid-19. Sắp tới, Bộ sẽ có văn bản hướng dẫn mở lại thị trường cho doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này.
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đang khẩn trương triển khai các biện pháp khôi phục hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau đại dịch Covid-19
Tập trung vào 3 thị trường trọng điểm
Ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, cho biết đến nay, sau khi tình hình dịch Covid-19 có chuyển biến tích cực, giới chủ ở Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đều đang muốn tiếp tục nhận lao động Việt Nam để khôi phục sản xuất – kinh doanh.
“Hai quốc gia và vùng lãnh thổ này không áp dụng quy định dừng tiếp nhận lao động nước ngoài nhập cảnh vào làm việc mà vẫn đang tiếp tục mở cửa thị trường cho lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp ở khu vực này cũng có khả năng đáp ứng được các yêu cầu về địa điểm cách ly, thời gian cách ly cũng như việc giám sát thực hiện cách ly cho lao động nước ngoài” – ông Nguyễn Gia Liêm thông tin thêm.
Cũng theo ông Liêm, thị trường Nhật Bản cũng đang có nhu cầu cao về tiếp nhận lao động Việt Nam, tập trung ở các lĩnh vực: Nông nghiệp, chăm sóc người cao tuổi, chế biến suất ăn, thực phẩm… Nhật Bản có thể mở cửa trở lại cho lao động nước ngoài vào tháng 7 và tháng 8 tới, sau khi chính phủ nước này dỡ bỏ tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc vào ngày 25/5.Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là 3 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam.
Trong hơn 10 năm qua, hằng năm, số lượng lao động Việt Nam sang 3 thị trường này chiếm trên 90% tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài. Do vậy, việc khôi phục 3 thị trường này quyết định Việt Nam có đạt mục tiêu đưa 130.000 người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong năm nay hay không.
Đó cũng là lý do mà tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng chống dịch Covid-19 mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã giao Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội chủ trì chỉ đạo việc đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), ngay sau khi các thị trường chủ lực này cơ bản đã an toàn, chính sách hạn chế nhập cảnh được dỡ bỏ.
Phải hết sức thận trọng
Tuy có những tín hiệu tích cực nhưng kế hoạch đưa người lao động ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng trong năm 2020 chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bối cảnh các thị trường lớn Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc vẫn đang kiểm soát chặt chẽ nhập cảnh. Riêng ở Nhật, do chính sách hạn chế nhập cảnh, từ đầu năm đến nay, hàng ngàn lao động đã ký kết hợp đồng với các nghiệp đoàn của nước này vẫn chưa thể xuất cảnh.
Giảm 40% lao động đi làm việc ở nước ngoài: Theo Thứ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh, trong 6 tháng đầu năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, cả nước chỉ đưa được 33.500 người đi làm việc ở nước ngoài, giảm 40% so với cùng kỳ năm 2019. Riêng trong tháng 5, các doanh nghiệp chỉ cung ứng được 126 lao động. Cũng trong 6 tháng đầu năm, có hơn 5.000 lao động Việt Nam ở nước ngoài phải về nước do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (chủ yếu là lao động hết hạn hợp đồng không thể gia hạn, ốm đau, thai sản, mất việc làm vì xí nghiệp, chủ sử dụng lao động thu hẹp sản xuất…).
Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết trước những diễn biến mới của tình hình dịch Covid-19 ở trong và ngoài nước, căn cứ tình hình lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài của các quốc gia và vùng lãnh thổ, Cục sẽ có hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp. Cơ quan này cũng đã trình Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành công văn hướng dẫn doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tại các thị trường đã an toàn và có nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam.
Trước mắt, theo chỉ đạo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Cục Quản lý lao động ngoài nước, doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện các hướng dẫn của cơ quan chức năng địa phương về phòng chống dịch Covid-19 trong công tác tư vấn, tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chủ động trao đổi với đối tác nước ngoài trên cơ sở chính sách, quy định về xuất nhập cảnh và tiếp nhận lao động để bảo đảm người lao động nhập cảnh hợp pháp, an toàn cũng như quyền lợi được bảo đảm trong trường hợp phải thực hiện cách ly sau khi nhập cảnh.
Top 10 công việc sẽ biến mất trong 10 năm tới và xu hướng mới của thị trường việc làm
Một thập niên mới của thời đại 4.0 đã bắt đầu, theo đó những thách thức và cơ hội trong giai đoạn mới cũng dần được hé lộ. Bài viết này sẽ giải đáp thắc mắc của các bạn về xu hướng việc làm, các nguy cơ, tiềm năng trong thập niên 20 của thế kỷ 21.
Xu hướng phát triển của nền kinh tế và bối cảnh thị trường việc làm
Hiện nay, chúng ta đang trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, là sự kết hợp cao độ giữa hệ thống siêu kết nối vật lý và kỹ thuật số với tâm điểm là internet, vạn vật kết nối (IoT) và đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). Sự xuất hiện của những bộ máy có tư duy phân tích mô phỏng như con người vừa mang lại những đột phá cho việc vận hành hoạt động xã hội nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức cho người lao động trong thị trường.
Thực chất, mối đe dọa từ các cỗ máy của cuộc cách mạng 4.0 đến thị trường việc làm đã xuất hiện từ rất lâu. Tuy nhiên, thập niên 20 tiếp sau đây sẽ là khoảng thời gian sự thay đổi này diễn ra rõ ràng nhất. Nếu bạn nghĩ rằng nó chỉ giới hạn trong các dây chuyền lắp ráp hay công nghệ điện tử thì thật ra, AI cũng đang làm việc tốt hơn con người ở một số khía cạnh khác như bán hàng, tiếp thị…
AI có thể phân tích các cuộc gọi bán hàng nhanh hơn nhiều so với bất kỳ người quản lý bán hàng nào. AI đã được sử dụng để phát triển các chiến lược tiếp thị nội dung. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó đóng vai trò lớn hơn trong quá trình này.
Người đồng sáng lập kiêm CTO HubSpot, Dharmesh Shah có cái nhìn tích cực hơn về tương lai của thị trường việc làm trước sự xâm nhập của AI. Trên thực tế, ông nghĩ rằng robot và AI sẽ giúp chúng ta làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn và an toàn hơn trong công việc, chứ không phải thay thế con người hoàn toàn.
AI sẽ tham gia vào quá trình làm việc để làm cho công việc của chúng ta dễ dàng hơn. Nhưng sự thật vẫn là một số công việc sẽ được thay thế bằng máy móc vì đó là bản chất của bất kỳ cuộc cách mạng công nghiệp hoặc công nghệ nào. Tin tốt là, bên cạnh một số công việc bị thay thế hoàn toàn thì có một nhóm các công việc chỉ có thể được điều chỉnh hoặc kết hợp với robbot/AI để giải quyết tốt hơn.
Dựa trên các báo cáo của bài khảo sát “Will Robots Take My Job?” được thực hiện trên website tên “Speaks for itself”, nghiên cứu này phân tích xác suất khả năng một công việc sẽ được thay thế bằng tự động hóa và tin học hóa – chủ yếu dựa trên mức độ phổ biến của công việc, đào tạo chuyên môn và trí thông minh xã hội cần thiết để hoàn thành nó. Đây không phải là một bản danh sách đầy đủ, nhưng nó sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho bạn tưởng tượng về sự thay đổi công việc sẽ diễn ra như thế nào trong một vài năm tới.
Top 10 công việc bị thay thế bởi công nghệ cao
1. Tiếp thị qua điện thoại
Xác suất: 99%
Nguyên nhân: Trong 10 năm kế tiếp, các cuộc gọi tự động sẽ tham gia vào hoạt động tiếp thị các sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Sự phát triển của các nghề nghiệp trong không gian tiếp thị qua điện thoại dự kiến sẽ giảm 3% vào năm 2024. Điều này phần lớn là do các yêu cầu của công việc. Không giống như các vai trò bán hàng khác, tiếp thị qua điện thoại không đòi hỏi mức độ thông minh xã hội hoặc cảm xúc, trí tuệ cao để thành công. Hãy suy nghĩ về câu hỏi: Bạn có khả năng mua hàng từ một người bán hàng qua điện thoại không? Tỷ lệ chuyển đổi cho bán hàng qua điện thoại trực tiếp thường dưới 10%, khiến công việc này trở thành cơ hội chín muồi để được tự động hóa.
2. Thư ký kế toán
Xác suất: 98%
Nguyên nhân: Các công việc trong lĩnh vực này dự kiến sẽ giảm 8% vào năm 2024 và không có gì ngạc nhiên khi hầu hết các sổ sách kế toán đều trở nên tự động hóa. QuickBooks, FreshBooks và Microsoft Office đã cung cấp phần mềm thực hiện việc ghi chép sổ sách với giá cả phải chăng hơn nhiều so với mức lương của một người, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi công việc này có xác suất cao như vậy.
3. Quản lý lợi ích công
Xác suất: 96%
Nguyên nhân: Sự xuất hiện của ngành nghề này trong danh sách là đáng ngạc nhiên vì mức độ tăng trưởng công việc được cho là tăng 7% vào năm 2024. Nhưng sự thay đổi trong nhu cầu công việc không làm cho nó an toàn khỏi quá trình tự động hóa. Khi các công ty tăng trưởng về quy mô – đặc biệt là trên các thị trường đa quốc gia – một hệ thống dựa trên con người và trên giấy có thể gây ra nhiều rào cản về thời gian và chi phí. Các hệ thống lợi ích tự động có thể tiết kiệm thời gian và công sức để cung cấp lợi ích cho số lượng lớn nhân viên và các công ty con. Ví dụ điển hình là Ultipro và Workday đã được áp dụng rất rộng rãi.
4. Nhân viên lễ tân
Xác suất: 96%
Nguyên nhân: Điện thoại tự động và hệ thống lập lịch có thể thay thế rất nhiều vai trò lễ tân truyền thống – đặc biệt là tại các công ty công nghệ hiện đại không có điện thoại toàn hệ thống văn phòng hoặc các tập đoàn đa quốc gia.
5. Chuyển phát nhanh
Xác suất: 94%
Nguyên nhân: Người chuyển phát và người giao hàng đã được thay thế bằng máy bay không người lái và robot, vì vậy vấn đề chỉ còn là thời gian cho đến khi công việc này bị chi phối hoàn toàn bởi tự động hoá.
6. Nhân viên hiệu đính (Proofreader)
Xác suất: 84%
Nguyên nhân: Phần mềm hiệu đính có ở khắp mọi nơi và mọi khía cạnh, từ kiểm tra chính tả và ngữ pháp đơn giản của Microsoft Word cho đến ứng dụng Grammarly và Hemingway, có rất nhiều công nghệ giúp bạn dễ dàng tự kiểm tra bài viết của mình.
7. Chuyên viên hỗ trợ qua máy tính
Xác suất: 65%
Nguyên nhân: Lĩnh vực này được dự đoán sẽ tăng 12% vào năm 2024, nhưng với rất nhiều nội dung và hoạt động trên internet, không có gì ngạc nhiên khi các công ty sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào robot và tự động hóa để trả lời câu hỏi hỗ trợ từ nhân viên và khách hàng trong tương lai.
8. Chuyên viên phân tích và nghiên cứu thị trường
Xác suất: 61%
Nguyên nhân: Các nhà phân tích nghiên cứu thị trường đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển thông điệp, nội dung và sản phẩm, nhưng AI và khảo sát tự động có thể biên dịch thông tin này ngày càng dễ dàng hơn. Chẳng hạn, GrowthBot có thể tiến hành nghiên cứu thị trường về các doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh bằng lệnh Slack đơn giản.
9. Nhân viên bán hàng và quảng cáo
Xác suất: 54%
Nguyên nhân: Khi quảng cáo chuyển khỏi báo in, TV và hướng tới các tương tác trên mạng xã hội và truyền thông xã hội, việc cần làm là đưa ra doanh số cho các nhà tiếp thị không gian quảng cáo. Nhiều nền tảng truyền thông xã hội đang giúp mọi người dễ dàng mua không gian quảng cáo thông qua giao diện chương trình ứng dụng miễn phí (API) và thị trường quảng cáo tự phục vụ để loại bỏ nhân viên bán hàng, giúp người dùng kiếm tiền nhanh hơn và dễ dàng hơn – và điều đó được phản ánh bằng con số giảm 3% trong ngành.
10. Nhân viên bán lẻ
Xác suất: 92%
Nguyên nhân: Nếu bạn đã ghé thăm một trung tâm mua sắm, đại lý xe hơi hoặc cửa hàng nội thất tại các thị trường phát triển, bạn có thể không được nhân viên bán hàng hỗ trợ từ đầu đến cuối. Các công ty đang “dân chủ hóa” trải nghiệm mua sắm cho khách hàng với các tính năng như tự kiểm tra, người mua hiện đại hiểu biết nhiều về internet và thực hiện nghiên cứu trên đó rồi tự đưa ra quyết định mua hàng.
Top 10 công việc bền vững trong 10 năm tới
1. Quản lý nhân sự
Xác suất bị đào thải: 0,55%
Nguyên nhân: Bộ phận Nhân sự của công ty luôn cần một người lãnh đạo để quản lý xung đột giữa các cá nhân với sự trợ giúp của các kỹ năng mang tính nhận thức và lý luận. Lĩnh vực này được dự đoán sẽ tăng 9% vào năm 2024 khi các công ty phát triển và cần các cấu trúc mạnh mẽ hơn để hỗ trợ và giúp đỡ nhân viên.
2. Quản lý bán hàng
Xác suất bị đào thải: 1,3%
Nguyên nhân: Người quản lý bán hàng cần một trí tuệ cảm xúc cao để đạt được hạn ngạch mỗi tháng, kết nối và cộng tác với khách hàng, đồng thời thúc đẩy và khuyến khích đội ngũ bán hàng làm việc tốt hơn. Các nhà quản lý cũng phải phân tích dữ liệu và diễn giải các xu hướng. Mức độ thông minh trí tuệ cao cần có cộng với nhu cầu liên tục thích nghi với các tình huống mới làm cho vai trò này an toàn khỏi tự động hóa.
3. Quản lý tiếp thị
Xác suất bị đào thải: 1,4%
Nguyên nhân: Các nhà quản lý tiếp thị phải giải thích dữ liệu, theo dõi xu hướng, giám sát các chiến dịch và tạo nội dung. Họ cũng phải nhanh chóng thích nghi và phản ứng với những thay đổi và phản hồi từ phần còn lại của công ty và khách hàng, khiến cho công nghệ AI tạm thời không hoàn toàn sẵn sàng để thâm nhập.
4. Quản lý quan hệ công chúng
Xác suất bị đào thải: 1,5%
Nguyên nhân: Các nhà quản lý PR thành công dựa vào một mạng lưới các mối quan hệ và liên hệ để mua các vị trí báo chí và quảng cáo cho các công ty mà họ đại diện, làm cho vai trò này hoàn toàn an toàn. Các nhà quản lý PR, những người phải nâng cao nhận thức về một vấn đề hoặc nhiệm vụ cần sự tiếp xúc đặc biệt của con người để gây sự chú ý hoặc khiến mọi người tham gia vào một chiến dịch – và công việc dự kiến sẽ tăng 7% vào năm 2024.
5. Giám đốc điều hành
Xác suất bị đào thải: 1,5%
Nguyên nhân: Gần như không thể tự động hóa khả năng lãnh đạo – xét cho cùng, thật khó để dạy nó cho một bộ máy. Giám đốc điều hành phải thông báo chiến lược rộng lớn, đại diện cho các nhiệm vụ và mục tiêu của các công ty và thúc đẩy các nhóm người làm việc cho họ. Các công ty có thể trả lời cho các bên liên quan và ban giám đốc, những người có khả năng sẽ không muốn robot đưa cho họ báo cáo thu nhập.
6. Nhà hoạch định sự kiện
Xác suất bị đào thải: 3,7%
Nguyên nhân: Lập kế hoạch sự kiện là một lĩnh vực đang phát triển. Cho dù bạn đang lên kế hoạch cho một sự kiện cho nhân viên, khách hàng hoặc một sự kiện trong ngành với hàng chục ngàn người tham dự thì quy trình lập kế hoạch luôn gồm nhiều công đoạn, nhiều bộ phận có liên quan. Các nhà hoạch định phải phối hợp và đàm phán với các nhà cung cấp, nhà thầu để kết nối các kỹ năng tổ chức và con người có liên quan với nhau. Điều này biến hoạch định sự kiện thành một vai trò gần như không thể tự động hóa.
7. Nhà văn
Xác suất bị đào thải: 3,8%
Nguyên nhân: Các nhà văn phải sáng tạo và sản xuất tài liệu gốc bằng văn bản. AI có thể thực hiện một số điều này với các đề xuất tiêu đề, viết lời nhắc và tin nhắn truyền thông xã hội tự động, nhưng bài đăng trên blog, sách, phim và vở kịch chỉ có thể được viết bởi con người, ít nhất trong tương lai gần.
8. Nhà phát triển phần mềm
Xác suất bị đào thải: 4.2%
Nguyên nhân: Công nghệ và phát triển phần mềm đã đủ khó để con người thực hiện. Việc đầu tư thời gian và kỹ năng cần thiết để tạo ứng dụng, phần mềm và trang web là vô cùng lớn và đòi hỏi sự học tập lẫn tự cải thiện qua từng bước làm việc. Các nhà phát triển cần thực hiện các bước thật hoàn hảo để tạo ra các sản phẩm tuyệt vời cho khách hàng. Lĩnh vực này dự kiến sẽ tăng 19% vào năm 2024, vì vậy nếu bạn là nhà phát triển phần mềm, hiện tại bạn đang có chỗ ngồi rất đẹp.
9. Biên tập viên
Xác suất bị đào thải: 5,5%
Nguyên nhân: Mặc dù một số hoạt động có thể được gỡ bỏ từ các biên tập viên với công nghệ hiệu đính tự động đã đề cập ở trên nhưng các biên tập viên phải xem lại bản trình bày của nhà văn để rõ ràng, chính xác, toàn diện và độc đáo. Mặc dù có một số phần mềm có thể kiểm tra sự rõ ràng và quét đạo văn, vai trò biên tập viên phải được thực hiện bởi một người để đọc và phân tích tác phẩm như một người khán giả.
10. Nhà thiết kế đồ họa
Xác suất bị thay thế: 8.2%
Nguyên nhân: Mặc dù có một số AI có thể thực hiện các bước nhỏ trong mảng thiết kế đồ họa nhưng suy cho cùng, thiết kế đồ họa bao gồm cả nghệ thuật và kỹ thuật, làm cho con người trở thành nhân tố không thể thay thế bởi máy móc. Giống như đã viết, tất cả các tác phẩm cần phải là bản gốc và được tạo ra theo mong muốn của khách hàng và cảm hứng của người sáng tác, vì vậy thiết kế đồ họa cần phải được tạo ra bởi nghệ sĩ và biên tập viên để hợp tất cả thành một.
Kết luận
Từ sự thay đổi trong cơ cấu công việc trên, chúng ta có thể nhận ra một đặc điểm chung là các ngành nghề tiềm năng trong 10 năm tới đều tương tác mật thiết với tự động hóa và trí tuệ nhân tạo. Để không bị đào thải khỏi thị trường, những thế hệ tiếp theo của lực lượng lao động cần phải học cách làm việc cùng máy móc và tận dụng hết năng lực từ sự hợp tác đó. Sẽ là quá muộn nếu ngay từ hôm nay chúng ta không bắt đầu hoàn thiện và phát triển các kỹ năng 4.0 cần có.
(Thanh tra)- Năm 2020, ngành Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) đặt ra mục tiêu đưa 130.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, tập trung vào các thị trường có thu nhập cao và ổn định.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh nên các đơn hàng xuất khẩu lao động đều sụt giảm. Ảnh: Internet
Đến thời điểm này, dịch bệnh COVID-19 đang tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (DN). Dịch bệnh đã làm giảm đơn hàng khiến nhiều DN đứng trước nguy cơ đóng cửa.
Theo thống kê, các thị trường truyền thống lớn như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc chiếm đến 80% số lao động ra nước ngoài làm việc những năm qua. Chính vì thế, số DN cung ứng lao động cho các thị trường này cũng chiếm phần lớn. Thông thường, vào thời điểm này hàng năm, việc tuyển dụng và xuất cảnh sang thị trường Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) rất sôi động. Tuy nhiên, năm nay, các đơn hàng đều sụt giảm.
Thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng cho thấy, hiện có hơn 300 DN được cấp phép đưa lao động đi làm việc ở Nhật Bản, nhưng hầu hết các DN đang chịu tác động từ dịch bệnh. Hiện, Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng đang bàn bạc với các DN tìm hướng giải quyết, tháo gỡ khó khăn giúp DN tiếp tục hoạt động.
Bên cạnh đó, nhiều công ty vẫn duy trì các biện pháp phòng, chống dịch để khi được đi học trở lại, học viên được an toàn tuyệt đối. Các công ty tuyển dụng cũng cho biết, do ảnh hưởng dịch bệnh nên việc chuẩn bị nguồn ứng viên để khi hết dịch sẽ triển khai sâu rộng đến các thị trường.
Nhiều địa phương đều xác định xuất khẩu lao động là con đường giải quyết việc làm hiệu quả, bởi vậy, những năm qua rất chú trọng công tác này. Nhưng trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp, các địa phương rất lo lắng không hoàn thành chỉ tiêu năm nay.
Dịch bệnh COVID-19 không chỉ làm ảnh hưởng đến các DN mà ngay bản thân những lao động đang chờ xuất cảnh cũng lo lắng, bởi nhiều gia đình có con đi xuất khẩu lao động đều phải vay ngân hàng. Nhưng tại thời điểm này, thời gian xuất cảnh phải lùi lại, thậm chí chưa biết bao giờ được đi. Ai cũng mong sớm ổn định công việc còn có tiền gửi về quê trả nợ.
Về phía Bộ LĐTB&XH, để hỗ trợ DN, bảo đảm sức khỏe cho lao động, liên tiếp trong 3 tháng qua, đã có công văn gửi các DN và các đơn vị có liên quan.
Tại buổi làm việc với các đơn vị trực thuộc mới đây, Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH yêu cầu các DN xuất khẩu lao động cần dừng ngay việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các khu vực có dịch. Đồng thời, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với DN không chấp hành. Có các biện pháp tuyên truyền, khuyến cáo người lao động (kể cả lao động bất hợp pháp) chủ động khai báo y tế, theo dõi sức khỏe theo quy định của các nước sở tại trong trường hợp bị nhiễm hay nghi nhiễm dịch COVID-19 hoặc đến từ các vùng khác.
Ngoài ra, Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng đã có khuyến cáo, để tránh bị lừa, trong thời điểm này người lao động không thực hiện bất kỳ hợp đồng nào từ các đơn vị xuất khẩu lao động mà mình chưa rõ thông tin. Đồng thời, theo dõi thông tin từ các chương trình của Cục Quản lý lao động ngoài nước tại www.colab.gov.vn, hoặc từ thông báo của địa phương như tuyển thực tập sinh hộ lý tại Nhật Bản khóa 1 năm 2020; tuyển chọn điều dưỡng viên đi học tập và làm việc tại Đức trong ngành điều dưỡng khóa 6 (năm 2020-2021); tuyển chọn thực tập sinh đi thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản theo chương trình IM Japan đợt 1 năm 2020…
Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng lưu ý các địa phương cần cập nhật danh sách những đơn vị được cấp phép đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài để người lao động biết.
Theo thống kê của Bộ LĐTB&XH, năm 2019 là năm thứ 4 liên tiếp vượt mức 120.000 lao động/năm, nâng tổng số lao động Việt Nam hiện đang làm việc ở nước ngoài lên khoảng 650.000 người tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong hơn 30 nhóm lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Một số thị trường lao động ngoài nước truyền thống tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam vẫn đang tiếp tục có nhu cầu tuyển dụng cao như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Một số thị trường ở châu Âu có nhu cầu ngày càng cao trong việc tiếp nhận lao động từ Việt Nam như Nga, Rumani, Đức, Ba Lan, Latsvia, Áo…
Riêng thị trường Đức, tính đến hết năm 2019, đã có hơn 1.000 điều dưỡng viên từ Việt Nam sang học tập và làm việc, được phía bạn đánh giá cao.