Tin bài

Thế giới có thể mất gần 25 triệu việc làm vì Covid-19

Thế giới có thể mất gần 25 triệu việc làm vì Covid-19
15:20 | 19/03/2020.

(LĐTĐ) Đánh giá sơ bộ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về ảnh hưởng của Covid-19 đến tình hình lao động trên toàn cầu cho thấy, tác động của dịch bệnh sẽ còn tiếp tục mở rộng, khiến hàng triệu người lao động sẽ phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và rớt xuống dưới chuẩn nghèo.

Theo ILO, cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do Covid-19 gây ra có thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu. Tuy nhiên, ILO cho rằng, nếu chúng ta có thể đưa ra giải pháp chính sách đối phó với tình hình này một cách đồng bộ ở tầm quốc tế – như thế giới đã chứng kiến trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009-2009, thì tác động của dịch bệnh đến tình trạng thất nghiệp toàn cầu có thể giảm đi đáng kể.

the gioi co the mat gan 25 trieu viec lam vi covid 19
ILO kêu gọi thực hiện các biện pháp khẩn cấp, trên diện rộng và đồng bộ ở cả ba trụ cột: Bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, kích thích nền kinh tế và việc làm, và hỗ trợ việc làm và thu nhập.

Báo cáo đánh giá sơ bộ “Covid 19 và thế giới việc làm: Tác động và giải pháp” của ILO kêu gọi thực hiện các biện pháp khẩn cấp, trên diện rộng và đồng bộ ở cả ba trụ cột: Bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, kích thích nền kinh tế và việc làm, và hỗ trợ việc làm và thu nhập.

Những biện pháp này bao gồm mở rộng an sinh xã hội, hỗ trợ khả năng giữ việc làm (như giảm thời giờ làm việc, nghỉ phép có lương, và các trợ cấp khác), giảm thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.

Ngoài ra, báo cáo sơ bộ cũng đề xuất các biện pháp chính sách tài khóa và tiền tệ, hỗ trợ cho vay và hỗ trợ tài chính đối với một số ngành kinh tế cụ thể

Các kịch bản khác nhau

Dựa vào các kịch bản khác nhau mà tác động của Covid-19 có thể gây ra đối với tăng trưởng GDP toàn cầu, ước tính của ILO cho thấy số người thất nghiệp toàn cầu sẽ tăng từ 5,3 triệu người (kịch bản “thấp”) đến 24,7 triệu người (kịch bản “cao”).

Đây là số tăng thêm so với nền số lượng người thất nghiệp sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. Nhìn lại trong tương quan với năm 2008-2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi đó khiến 22 triệu người rơi vào tình trạng thất nghiệp.

Tình trạng thiếu việc làm (không sử dụng được đầy đủ khả năng làm việc của người lao động có việc làm) cũng được dự báo sẽ tăng theo diện rộng, khi những tác động về kinh tế của Covid-19 sẽ khiến cả giờ làm và tiền lương bị giảm.

Nhóm lao động tự làm ở các nước đang phát triển – vốn thường là tấm đệm giúp làm nhẹ bớt độ xung của những tác động do những thay đổi đột ngột mang lại – thì lần này sẽ không còn tác dụng vì những hạn chế di chuyển đối với con người và hàng hóa.

Giảm số lượng việc làm đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập lớn cho người lao động. Nghiên cứu ước tính con số này tương đương từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. Điều này sẽ dẫn tới giảm tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, từ đó tác động tới triển vọng của doanh nghiệp và các nền kinh tế

Tình trạng lao động nghèo được dự báo cũng sẽ gia tăng đáng kể, bởi “việc giảm thu nhập do suy giảm các hoạt động kinh tế sẽ ảnh hưởng xấu tới những người lao động cận nghèo hoặc sống dưới chuẩn nghèo”.

ILO ước tính rằng sẽ có thêm từ 8,8 đến 35 triệu người lao động rơi vào đói nghèo trên khắp thế giới, so với mức ước tính trước đây cho năm 2020 (là giảm 14 triệu người )

Phản ứng chính sách nhanh chóng và đồng bộ

“Đây không còn chỉ là cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu nữa, mà Covid-19 cũng chính là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đối với thị trường lao động và kinh tế, tác động lớn tới con người,” Tổng Giám đốc ILO, ông Guy Ryder cho biết.

“Trong năm 2008, thế giới đã cho thấy sự đồng lòng để cùng nhau giải quyết các hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và đã có thể tránh được những tác động tồi tệ nhất. Đó chính là điều chúng ta cần lúc này,” ông Guy Ryder nói

Báo cáo của ILO cảnh báo rằng tác động của cuộc khủng hoảng việc làm tới một số nhóm lao động sẽ không đồng đều, và điều này sẽ làm gia tăng bất bình đẳng. Những người bị ảnh hưởng lớn bao gồm những người được bảo vệ ít hơn và làm những công việc được trả lương thấp, nhất là lao động trẻ và lao động cao tuổi. Phụ nữ và lao động di cư cũng thuộc nhóm này.

Lao động di cư dễ bị tổn thương vì họ thường không được hưởng đầy đủ quyền lao động và an sinh xã hội. Trong khi đó, phụ nữ thường chiếm số đông trong nhóm các công việc lương thấp và các ngành kinh tế bị tác động bởi dịch bệnh.

Tổng Giám đốc ILO kết luận: “Trong những lúc khủng hoảng như hiện nay, chúng ta có hai công cụ chính có thể giúp giảm bớt những tác động tiêu cực và giúp phục hồi niềm tin của công chúng.

Thứ nhất là đối thoại xã hội – đối thoại giữa người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức đại diện của họ. Công cụ này đóng vai trò quan trọng để xây dựng niềm tin của công chúng và hỗ trợ các biện pháp mà chúng ta cần thực hiện để vượt qua cuộc khủng hoảng này.

Thứ hai là các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các tiêu chuẩn này cung cấp một nền tảng đã được thử nghiệm và khẳng định dành cho các phản ứng chính sách tập trung vào việc phục hồi một cách bền vững và công bằng. Chúng ta cần làm tất cả mọi thứ cần thiết để giảm thiểu thiệt hại đối với con người trong thời điểm khó khăn này.”

ILO Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động Việt Nam

Giám đốc ILO Việt Nam Chang-Hee Lee cho rằng, Việt Nam đã làm rất tốt công tác kiềm chế dịch Covid-19. Sự quyết tâm được thể hiện rõ qua thông điệp của Thủ tướng rằng Chính phủ chấp nhận thiệt hại về kinh tế để bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho người dân.

Ông Chang-Hee Lee chia sẻ: “Khi cuộc chiến chống Covid-19 có khả năng sẽ còn kéo dài, bây giờ chính là lúc bắt đầu hành động để giảm thiểu những tác động tiêu cực của virus tới doanh nghiệp, việc làm và thu nhập của phần lớn người lao động, bao gồm cả khu vực kinh tế phi chính thức. ILO Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động để chiến đấu vì việc làm thỏa đáng tại thời điểm khủng hoảng toàn cầu nghiêm trọng về cả sức khỏe, thị trường lao động cũng như kinh tế hiện nay.”

B.D (nguồn Lao động thủ đô)

Đại dịch Covid-19 khiến hơn 1/6 thanh niên thế giới mất việc làm

Đại dịch Covid-19 khiến hơn 1/6 thanh niên thế giới mất việc làm

16:15 | 28/05/2020.

(LĐTĐ) Những phân tích mới nhất của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tác động của Covid-19 lên thị trường lao động hé lộ những hệ quả đặc biệt nặng nề đối với lao động trẻ, khi có tới hơn 1/6 thanh niên thế giới mất việc làm.

dai dich covid 19 khien hon 16 thanh nien the gioi mat viec lam
Theo ILO, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, hơn 1/6 lao động trẻ đã phải ngừng việc. Ảnh minh họa- B.D

ILO cho biết, kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, hơn 1/6 lao động trẻ đã phải ngừng việc, còn với những người có thể tiếp tục công việc thì đã bị cắt giảm 23% số giờ làm việc.

Theo Báo cáo nhanh số 4 của ILO: Covid-19 và thế giới việc làm, thanh niên là đối tượng bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề bởi đại dịch, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên tăng nhanh đáng kể từ tháng 2 đã và đang tác động đến nữ nhiều hơn nam giới.

Đại dịch này tạo nên cú sốc đối với thanh niên ở ba phương diện. Đại dịch không chỉ hủy hoại việc làm của họ, mà còn làm gián đoạn việc học hành và đào tạo, cũng như dựng nên nhiều trở ngại lớn đối với những người muốn tham gia thị trường lao động hay muốn thay đổi công việc.

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên năm 2019 ở mức 13,6% đã là cao hơn bất kỳ nhóm dân số nào khác. Khoảng 267 triệu thanh niên, tức 1/5 dân số thế giới, ở tình trạng không có việc làm mà cũng không tham gia học hành hoặc đào tạo (NEET). Những người trong độ tuổi từ 15 đến 24 nếu có việc làm thì cũng là những hình thức công việc dễ bị tổn thương như công việc được trả lương thấp, việc làm trong khu vực phi chính thức hay lao động di cư.

Tổng Giám đốc ILO – ông Guy Ryder cho biết: “Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh niên, đặc biệt là nữ giới, với tác động nặng nề hơn và nhanh chóng hơn so với các nhóm dân số khác. Nếu chúng ta không kịp thời hành động để cải thiện tình hình, hệ quả mà virus gây ra có thể sẽ kéo dài hàng thập kỷ. Nếu tài năng, năng lực của họ bị gạt ra ngoài lề do thiếu cơ hội và kỹ năng, điều đó sẽ hủy hoại tương lai của tất cả chúng ta và đặt ra những khó khăn cho công cuộc tái thiết một nền kinh tế tốt hơn giai đoạn hậu Covid-19.”

Báo cáo kêu gọi những phản ứng chính sách cấp bách, quy mô lớn và có mục tiêu để hỗ trợ thanh niên, trong đó bao gồm các chương trình đảm bảo việc làm/đào tao trên diện rộng ở các nước phát triển và các chương trình chú trọng tạo nhiều việc làm và đảm bảo việc làm ở những nền kinh tế có thu nhập thấp và trung bình.

Báo cáo cũng cập nhật số liệu ước tính về mức giảm thời giờ làm việc trong quý I và quý II năm 2020 so với quý IV năm 2019. Ước tính 4,8% thời giờ làm việc đã bị cắt giảm trong quý I năm 2020 (tương đương với khoảng 135 triệu việc làm toàn thời gian, giả định tuần làm việc 48 giờ). Con số này thể hiện mức điều chỉnh tăng nhẹ – khoảng 7 triệu việc làm – kể từ Báo cáo nhanh số 3. Dự báo mức tổn thất việc làm trong quý II không thay đổi và duy trì ở mức 305 triệu việc làm.

Xét theo khu vực, Châu Mỹ (13,1%) và châu Âu và Trung Á (12,9%) là những khu vực có tỷ lệ giảm số giờ làm việc cao nhất trong quý II.

Báo cáo một lần nữa kêu gọi các biện pháp cấp bách và tức thì nhằm hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp dựa trên chiến lược bốn trụ cột của ILO: Kích thích nền kinh tế và việc làm; hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập; bảo vệ người lao động tại nơi làm việc; dựa vào đối thoại xã hội để tìm ra giải pháp.

B.D (nguồn Lao động thủ đô).

ILO cam kết hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy di cư lao động an toàn

ILO cam kết hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy di cư lao động an toàn

12:03 | 11/06/2020.

(LĐTĐ) Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo di cư lao động an toàn hơn và có lợi hơn cho người lao động di cư. Theo ILO, việc sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thể là cơ hội để đảm bảo rằng người lao động di cư Việt Nam sẽ được thị trường toàn cầu đón nhận và quyền của người lao động sẽ được bảo vệ theo những tiêu chuẩn lao động quốc tế.

Dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng sửa đổi (Luật số 72) đã được Quốc hội đưa ra thảo luận vào ngày 10/6 và dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 10 năm 2020.

ilo cam ket ho tro viet nam thuc day di cu lao dong an toan
Lao động Việt Nam đăng ký dự thi tiếng Hàn đi làm việc tại Hàn Quốc

Sau khi thông qua, Luật sửa đổi sẽ có ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm ngàn người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, gia đình cũng như cộng đồng của họ và có tác động đến sự phát triển của di cư và công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế của Việt Nam trong tương lai.

Giám đốc ILO Việt Nam, TS Chang-Hee Lee, cho biết: “Việc quy định cấm áp dụng các loại phí tuyển dụng và chi phí liên quan một cách rõ ràng trong luật đóng vai trò rất quan trọng. Khi người lao động  phải trả lệ phí và chi phí cao, cũng như phải vay nợ với lãi suất cao để đi làm việc ở nước ngoài, họ dễ trở thành nạn nhân của tình trạng bị lạm dụng, bóc lột, lệ thuộc vì nợ, lao động cưỡng bức và buôn bán người. Do đó, những lợi ích cho phát triển của di cư lao động không thể được đảm bảo một cách đầy đủ.”

Công ước về Các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân số 181 và các nguyên tắc chung và hướng dẫn triển khai hoạt động tuyển dụng công bằng của ILO nêu rõ “người lao động không phải gián tiếp hay trực tiếp chịu một phần hay toàn bộ lệ phí tuyển dụng hoặc chi phí liên quan” và “chủ sử dụng lao động, trong khu vực công cũng như tư, hoặc trung gian của họ, thay vì người lao động, phải chịu chi phí tuyển dụng”.

Việt Nam hiện có mức phí tuyển dụng và các chi phí liên quan ở mức cao được quy định trong luật. Theo một nghiên cứu mới của ILO, người lao động di cư không hiểu rõ cơ cấu lệ phí, chi phí hiện tại và quy định phức tạp về các mức phí theo luật định khiến người lao động khó biết được họ có phải đóng quá mức phí quy định hay không.

Nghiên cứu cho thấy tình trạng thu phí người lao động di cư trên mức trần theo quy định của luật còn phổ biến. Một số người được phỏng vấn cho biết họ đã phải trả từ 163 triệu đồng đến 372 triệu đồng (7.000-16.000 USD) để đi việc tại Nhật Bản và Đài Loan, Trung Quốc, cao hơn nhiều so với mức giới hạn theo quy định của pháp luật. Việc quy định các kênh di cư hợp thức trong luật với mức chi phí thấp hơn, mất ít thời gian và quy định đơn giản hơn sẽ giúp giải quyết vấn đề thu phí quá cao so với mức luật định, ngoài ra cũng dễ giám sát và thực thi hơn.

Bà Anna Olsen – chuyên gia về di cư lao động của ILO cho biết: “Các hành vi lạm dụng liên quan đến tình trạng lệ thuộc do nợ nần xuất phát từ việc trả các khoản phí tuyển dụng có thể dẫn đến nạn lao động cưỡng bức và buôn bán người.”

Trong một động thái liên quan, Quốc hội đã bỏ phiếu phê chuẩn Công ước cơ bản số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức của ILO vào ngày 8/6 vừa qua.

“Để giải quyết các vấn đề rủi ro liên quan đến lao động cưỡng bức, cần phải có một khung pháp lý quốc gia đầy đủ và các chính sách di cư lao động toàn diện dựa trên những tiêu chuẩn lao động quốc tế,” bà Olsen nhận định.

Theo chuyên gia, việc sửa đổi Luật số 72 mang đến cơ hội cho Việt Nam trong việc đáp ứng các nhu cầu từ nhiều chủ sử dụng lao động và doanh nghiệp đa quốc gia hàng đầu muốn thuê lao động di cư “được tuyển dụng không phí”, theo đó họ không phải trả bất cứ khoản chi phí nào để đi làm việc ở nước ngoài. Điều này sẽ giúp bảo vệ người lao động di cư tốt hơn và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Năm 2019, Việt Nam đã phái cử hơn 152.000 lao động di cư ra nước ngoài, hai phần ba trong số này là nam giới. Nhật Bản và Đài Loan, Trung Quốc đã tiếp nhận hơn 90% lao động di cư hợp thức của Việt Nam trong ba năm qua. Hàng năm, Chính phủ đều tăng các mục tiêu di cư lao động cấp quốc gia và cấp tỉnh, tích cực thúc đẩy di cư lao động như một phương tiện tạo công ăn việc làm, nâng cao kỹ năng cho người lao động và giảm nghèo.

B.Duy (nguồn Lao động Thủ đô)

Nỗ lực để khôi phục xuất khẩu lao động hậu Covid- 19

Nỗ lực để khôi phục xuất khẩu lao động hậu Covid- 19

10:41 | 23/07/2020.

(LĐTĐ) Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang khẩn trương triển khai các biện pháp khôi phục hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau đại dịch Covid-19. Sắp tới, Bộ sẽ có văn bản hướng dẫn mở lại thị trường cho doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này.

no luc de khoi phuc xuat khau lao dong hau covid 19
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đang khẩn trương triển khai các biện pháp khôi phục hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau đại dịch Covid-19

Tập trung vào 3 thị trường trọng điểm

Ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, cho biết đến nay, sau khi tình hình dịch Covid-19 có chuyển biến tích cực, giới chủ ở Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đều đang muốn tiếp tục nhận lao động Việt Nam để khôi phục sản xuất – kinh doanh.

“Hai quốc gia và vùng lãnh thổ này không áp dụng quy định dừng tiếp nhận lao động nước ngoài nhập cảnh vào làm việc mà vẫn đang tiếp tục mở cửa thị trường cho lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp ở khu vực này cũng có khả năng đáp ứng được các yêu cầu về địa điểm cách ly, thời gian cách ly cũng như việc giám sát thực hiện cách ly cho lao động nước ngoài” – ông Nguyễn Gia Liêm thông tin thêm.

Cũng theo ông Liêm, thị trường Nhật Bản cũng đang có nhu cầu cao về tiếp nhận lao động Việt Nam, tập trung ở các lĩnh vực: Nông nghiệp, chăm sóc người cao tuổi, chế biến suất ăn, thực phẩm… Nhật Bản có thể mở cửa trở lại cho lao động nước ngoài vào tháng 7 và tháng 8 tới, sau khi chính phủ nước này dỡ bỏ tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc vào ngày 25/5.Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là 3 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam.

Trong hơn 10 năm qua, hằng năm, số lượng lao động Việt Nam sang 3 thị trường này chiếm trên 90% tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài. Do vậy, việc khôi phục 3 thị trường này quyết định Việt Nam có đạt mục tiêu đưa 130.000 người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong năm nay hay không.

Đó cũng là lý do mà tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng chống dịch Covid-19 mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã giao Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội chủ trì chỉ đạo việc đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), ngay sau khi các thị trường chủ lực này cơ bản đã an toàn, chính sách hạn chế nhập cảnh được dỡ bỏ.

Phải hết sức thận trọng

Tuy có những tín hiệu tích cực nhưng kế hoạch đưa người lao động ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng trong năm 2020 chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bối cảnh các thị trường lớn Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc vẫn đang kiểm soát chặt chẽ nhập cảnh. Riêng ở Nhật, do chính sách hạn chế nhập cảnh, từ đầu năm đến nay, hàng ngàn lao động đã ký kết hợp đồng với các nghiệp đoàn của nước này vẫn chưa thể xuất cảnh.

Giảm 40% lao động đi làm việc ở nước ngoài: Theo Thứ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh, trong 6 tháng đầu năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, cả nước chỉ đưa được 33.500 người đi làm việc ở nước ngoài, giảm 40% so với cùng kỳ năm 2019. Riêng trong tháng 5, các doanh nghiệp chỉ cung ứng được 126 lao động. Cũng trong 6 tháng đầu năm, có hơn 5.000 lao động Việt Nam ở nước ngoài phải về nước do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (chủ yếu là lao động hết hạn hợp đồng không thể gia hạn, ốm đau, thai sản, mất việc làm vì xí nghiệp, chủ sử dụng lao động thu hẹp sản xuất…).

Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết trước những diễn biến mới của tình hình dịch Covid-19 ở trong và ngoài nước, căn cứ tình hình lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài của các quốc gia và vùng lãnh thổ, Cục sẽ có hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp. Cơ quan này cũng đã trình Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành công văn hướng dẫn doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tại các thị trường đã an toàn và có nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam.

Trước mắt, theo chỉ đạo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Cục Quản lý lao động ngoài nước, doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện các hướng dẫn của cơ quan chức năng địa phương về phòng chống dịch Covid-19 trong công tác tư vấn, tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chủ động trao đổi với đối tác nước ngoài trên cơ sở chính sách, quy định về xuất nhập cảnh và tiếp nhận lao động để bảo đảm người lao động nhập cảnh hợp pháp, an toàn cũng như quyền lợi được bảo đảm trong trường hợp phải thực hiện cách ly sau khi nhập cảnh.

Ngọc Tú (nguồn Lao động Thủ đô)

Lao động Việt Nam “rộng cửa” làm việc tại thị trường Nhật Bản

Lao động Việt Nam “rộng cửa” làm việc tại thị trường Nhật Bản

12/12/2018 14:57 GMT+7
Lao động Việt Nam “rộng cửa” làm việc tại thị trường Nhật Bản - Ảnh 1.

Lao động học tiếng Nhật trước khi sang Nhật Bản làm việc. (Ảnh: TTXVN).

Thị trường Nhật Bản đang trở thành thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam trong những năm gần đây. Việc làm tốt cùng với thu nhập hấp dẫn là những lý do khiến Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lao động mà người lao động mong muốn được sang làm việc nhất hiện nay. Tới năm 2019, cơ hội việc làm tại thị trường này với lao động Việt lại càng “rộng cửa” hơn.

“Mở cửa” với lao động nước ngoài

Với đa số phiếu thuận, dự luật Quản lý xuất nhập cảnh sửa đổi chính thức được Thượng viện Nhật Bản thông qua vào ngày 8/12 và có hiệu lực từ tháng 4/2019. Dự luật sẽ mở rộng cơ hội sang Nhật Bản làm việc cho lao động Việt Nam.

Theo nội dung dự luật, chính phủ Nhật Bản sẽ cấp visa kỹ năng đặc thù loại 1 có thời hạn tối đa 5 năm cho lao động trong 14 ngành nghề và visa kỹ năng đặc thù loại 2 không giới hạn thời gian cho những lao động giàu kỹ năng trong 5 ngành nghề: Xây dựng, đóng tàu, sửa chữa bảo dưỡng ô tô, hàng không và lưu trú khách sạn.

Ông Nguyễn Viết Hương, Phó Cục Trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) cho biết, theo nội dung trong luật, trước mắt, Nhật Bản sẽ tiếp nhận lao động nước ngoài trong 14 ngành nghề: Xây dựng, đóng tàu/công nghiệp tàu thủy, nông nghiệp, hộ lý, lưu trú, sản xuất thực phẩm/ đồ uống, nhà hàng, ngư nghiệp, vệ sinh tòa nhà, công nghiệp rèn đúc, công nghiệp điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ôtô và hàng không.

“Về cơ bản, nguồn nhân lực của Việt Nam đều có thể đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận của phía Nhật Bản theo chính sách mới. Tuy nhiên, để đáp ứng mục tiêu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta sẽ đặt trọng tâm hơn trong việc phái cử người lao động trong các nghề như: Đóng tàu, công nghiệp rèn đúc, công nghiệp điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ôtô và hàng không,…” ông Nguyễn Viết Hương nhấn mạnh.

Theo ông Hương, với nghề xây dựng, do đặc thù công việc nặng nhọc, vất vả, phải di chuyển nhiều sẽ khó hấp dẫn được người lao động lựa chọn nếu Nhật Bản không có chính sách thu hút.

Với dự luật mới, Nhật Bản ước tính sẽ tiếp nhận 345.000 lao động nước ngoài trong 5 năm tới. Dự luật đang mở ra thêm nhiều cơ hội việc làm tại Nhật Bản cho lao động Việt Nam.

Chi phí ngày càng thấp

Cùng với nhu cầu tuyển dụng cao, chi phí đi thị trường Nhật Bản cũng đang ngày càng thấp. Nếu như trước kia khi nói đến thị trường này, chi phí có thể lên tới 200-300 triệu đồng thì giờ đây chỉ với hơn 100 triệu đồng lao động có thể đi làm việc tại Nhật Bản. Thậm chí số tiền này còn được Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ vay vốn.

Cam kết đưa lao động sang Nhật Bản với tổng chi phí 105 triệu đồng với thời gian làm việc là 3 năm, ông Vũ Quang Hoàng, Chủ tịch Công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác lao động Laco (Lacoli) cho biết công ty đã ký kết hợp tác với 18 nghiệp đoàn và đang đang tuyển dụng lao động đi làm việc trong các ngành: Chế biến thực phẩm, thủy hải sản, may mặc, điện tử, mộc, xây dựng, cơ khí,…

Đánh giá về thị trường Nhật Bản, ông Vũ Quang Hoàng nhận định: “Số lượng lao động đi Nhật Bản của công ty năm 2018 đã tăng gấp đôi so với năm 2017 và nhu cầu tuyển dụng trong năm 2019 được dự báo tiếp tục tăng cao. Nhu cầu tuyển dụng lớn, điều kiện làm việc, tiền lương của thị trường Nhật Bản lại rất hấp dẫn, do đó công ty tôi lựa chọn đây là thị trường chính của công ty.”

Bên cạnh đó, ông Hoàng cho biết doanh nghiệp này có một số đơn hàng tuyển lao động yêu cầu trình độ chỉ tốt nghiệp cấp 2 (tức trung học cơ sở), điều này mở ra thêm nhiều cơ hội việc làm đối với lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động tại các địa bàn các xã, huyện nghèo.

Lao động có mong muốn đi làm việc ở Nhật Bản còn có thể đăng ký tham gia chương trình IM Japan của Trung tâm Lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội). Đối với chương trình này, người lao động không mất bất cứ chi phí môi giới nào mà chỉ phải nộp chi phí làm hộ chiếu, lệ phí visa, chi phí khám sức khỏe, chi phí đào tạo dự bị tiếng Nhật, chi phí ăn, ở, đi lại trong thời gian đào tạo tại Việt Nam.

Mỗi đợt tuyển dụng, chương trình IM Japan sẽ chọn 500 ứng viên sang Nhật Bản làm việc trong ngành xây dựng và sản xuất chế tạo. Người lao động khi tham gia chương trình trong 3 năm được hưởng mức lương theo hợp đồng trong khoảng từ 25 triệu đồng/tháng đến 30 triệu đồng/tháng. Sau khi hoàn thành chương trình thực tập, về nước đúng thời hạn, người lao động sẽ được hỗ trợ một khoản tương đương 120-200 triệu đồng để khởi nghiệp.

Tính đến nay, Việt Nam đã phái cử được trên 200.000 lao động sang tu nghiệp và thực tập tại Nhật Bản. Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc để trở thành nước dẫn đầu về số lượng phái cử hàng năm lẫn số lượng thực tập sinh đang thực tập tại Nhật Bản trong số 15 quốc gia đang phái cử. Dự kiến, số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng cùng với sự “mở cửa” của dự luật Quản lý xuất nhập cảnh sửa đổi./.

(Nguồn Thông tấn xã Việt Nam)

Nhật Bản là thị trường dẫn đầu về thu hút lao động Việt Nam

Nhật Bản là thị trường dẫn đầu về thu hút lao động Việt Nam

04/01/2019 15:32 GMT+7

Năm 2018, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 142.860 lao động, trong đó dẫn đầu là thị trường Nhật Bản đạt gần 69.000 lao động.

Nhật Bản là thị trường dẫn đầu về thu hút lao động Việt Nam - Ảnh 1.

Thị trường Nhật Bản sẽ thu hút nhiều lao động Việt Nam thời gian tới. Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN

Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTBXH), năm 2018, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 142.860 lao động (50.292 lao động nữ) vượt 30% so với kế hoạch năm 2018, trong đó dẫn đầu là thị trường Nhật Bản đạt gần 69.000 lao động.

Theo thống kê, số lượng thực tập sinh hằng năm gia tăng nhanh chóng. Năm 2013, lần đầu tiên lao động được phái cử sang Nhật Bản vượt ngưỡng 10.000 người/năm; năm 2015 đạt trên 30.000 người và năm 2017 là trên 54.000 người. Tổng số lao động Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản khoảng 126.000 người. Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc trở thành nước có số lượng phái cử hằng năm và số lao động đang thực tập sinh tại Nhật Bản đông nhất trong số 15 quốc gia phái cử.

Bước sang năm 2019, số lượng lao động đi làm việc ở Nhật Bản dự báo sẽ tiếp tục tăng do dự luật Quản lý xuất nhập cảnh sửa đổi chính thức được Thượng viện Nhật Bản thông qua mới đây và sẽ có hiệu lực từ tháng 4/2019. Với dự luật mới, Nhật Bản ước tính sẽ tiếp nhận 345.000 lao động nước ngoài trong 5 năm tới. Dự luật đang mở ra thêm nhiều cơ hội việc làm tại Nhật Bản cho lao động Việt Nam.

Theo bà Trần Thị Vân Hà, Trưởng phòng Truyền thông Cục Quản lý lao động ngoài nước, theo nội dung trong luật, trước mắt, Nhật Bản sẽ tiếp nhận lao động nước ngoài trong 14 ngành nghề: Xây dựng, đóng tàu/công nghiệp tàu thủy, nông nghiệp, hộ lý, lưu trú, sản xuất thực phẩm/đồ uống, nhà hàng, ngư nghiệp, vệ sinh tòa nhà, công nghiệp rèn đúc, công nghiệp điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ôtô và hàng không.

Trong năm 2018, sau thị trường Nhật Bản, các thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam gồm có: Đài Loan hơn 60.000 lao động, Hàn Quốc: 6.538 lao động, Ả rập – Xê út: 1.920 lao động, Rumania: 1.319 lao động, Malaysia: 1.102 lao động, Algeria: 1.014 lao động, Kuwait: 794 lao động và các thị trường khác./.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Cơ hội cho nhiều lao động Việt Nam đến Nhật Bản

Cơ hội cho nhiều lao động Việt Nam đến Nhật Bản

14/03/2019 12:13 GMT+7

TTO – Trong năm 2018, trong số 143.000 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã có đến gần 68.000 người đến Nhật Bản tu nghiệp, làm việc.

Cơ hội cho nhiều lao động Việt Nam đến Nhật Bản - Ảnh 1.

Ông Kensaku Morita, tỉnh trưởng tỉnh Chiba, Nhật Bản (trái) cùng thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Doãn Mậu Diệp đã ký kết bản ghi nhớ về phát triển nguồn nhân lực trưa 14-3 – Ảnh: ĐỨC BÌNH

“Hôm nay chỉ là ký kết mở đầu ở lĩnh vực điều dưỡng viên, chắc chắn thời gian tới tỉnh Chiba sẽ ký kết ở nhiều lĩnh vực khác với Việt Nam” – ông Kensaku Morita, tỉnh trưởng tỉnh Chiba (Nhật Bản) khẳng định như vậy tại lễ ký kết bản ghi nhớ về phát triển nguồn nhân lực giữa tỉnh Chiba và Bộ Lao động thương binh và xã hội, trưa 14-3.

Theo ông Kensaku Morita, tỉnh Chiba có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực và hiện có 54.000 lao động nước ngoài đang thực tập, làm việc tại tỉnh này, trong đó đông nhất là lao động Việt Nam, với hơn 14.000 người.

“Lao động Việt Nam là đông nhất ở Chiba, với hơn 14.000 người và khi tôi đến các doanh nghiệp, tất cả họ đều khen ngợi lao động Việt Nam. Đây chính là lí do mà tỉnh Chiba đã có nhiều chính sách để hỗ trợ lao động Việt Nam để họ yên tâm sống và làm việc.

Cũng chính vì lí do đó, tỉnh Chiba mong muốn được hợp tác với Việt Nam trong phát triển nguồn nhân lực” –  tỉnh trưởng tỉnh Chiba nhấn mạnh.

Tại lễ ký kết, thứ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội cũng cho biết những năm qua số lượng tu nghiệp sinh, thực tập sinh, lao động Việt Nam đến Nhật Bản làm việc ngày càng đông, trong đó có tỉnh Chiba.

“Lễ ký kết hôm nay chắc chắn sẽ là cơ hội cho nhiều lao động Việt Nam được đến Chiba và Nhật Bản làm việc” – ông Diệp khẳng định.

Theo Cục quản lý lao động ngoài nước (Bộ lao động thương binh và xã hội), riêng trong năm 2018, trong số 143.000 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, đã có đến gần 68.000 người đến Nhật Bản tu nghiệp, làm việc.

ĐỨC BÌNH (theo Tuổi Trẻ Online)

Từ 1-4, lương lao động Việt tại Nhật sẽ bằng hoặc cao hơn người bản địa

Từ 1-4, lương lao động Việt tại Nhật sẽ bằng hoặc cao hơn người bản địa

15/03/2019 12:42 GMT+7

TTO – Chính phủ Nhật Bản vừa công bố hàng loạt nghị định và thông tư liên quan đến chính sách thị thực mới cho lao động nước ngoài, trong đó tập trung bảo vệ quyền lợi người lao động từ quá trình môi giới đến lương bổng.

Từ 1-4, lương lao động Việt tại Nhật sẽ bằng hoặc cao hơn người bản địa - Ảnh 1.

Thực tập sinh Việt Nam làm việc tại nhà máy sản xuất ôtô ở tỉnh Chiba tháng 10-2018 – Ảnh chụp màn hình

Việc ban hành các quy định và hướng dẫn thi hành là bước chuẩn bị cho chính sách thị thực mới sẽ bắt đầu có hiệu lực sau ngày 1-4 tới, theo nhật báo Mainichi ngày 15-3. Tất cả các quy định này đều được đăng tải trên trang chủ chính thức của Bộ Nội vụ Nhật Bản.

Nhiều vấn đề liên quan sát sườn tới sức khỏe và quyền lợi của người lao động nước ngoài đã được đề cập trong bộ quy định, từ việc sàng lọc các công ty tiếp nhận đến trả lương công bằng và bảo vệ lao động trước các công ty môi giới lừa đảo.

Đây đều là những vấn đề được các nước có đông lao động đang làm việc tại Nhật Bản, bao gồm Việt Nam, bày tỏ quan ngại và đề nghị cải thiện sau khi Tokyo thay đổi hệ thống thị thực.

Theo đó, những công ty tại Nhật Bản muốn thuê lao động người nước ngoài phải là những công ty chưa từng vi phạm luật nhập cư, hay các quy định về lao động khác trong thời gian 5 năm trở lại đây.

Đáng chú ý, các công ty này phải trả lương cho lao động nước ngoài mức lương tương đương hoặc cao hơn so với mức lương trả cho lao động người Nhật Bản. Việc trả lương phải được thực hiện một cách hợp pháp thông qua tài khoản ngân hàng của người lao động.

Ngoài ra, các công ty tiếp nhận có nghĩa vụ hỗ trợ người lao động đăng ký hợp đồng điện thoại di động.

Để loại bỏ vai trò trung gian của các công ty môi giới lừa đảo hay kém chất lượng, cơ quan chức năng khi làm thủ tục nhập cảnh cho lao động nước ngoài vào Nhật Bản sẽ xác minh rõ người lao động đã được mua bảo hiểm hay chưa.

Ngược lại, người lao động cũng phải đáp ứng tiêu chuẩn về sức khỏe mới được cấp thị thực nhập cảnh. Trong trường hợp lao động về nước nhưng không đủ khả năng trang trải chi phí đi lại, công ty sử dụng lao động có nghĩa vụ trả số tiền này thay cho người lao động.

Nghị định của Chính phủ Nhật Bản cũng xác định rõ những nguyên tắc đối với “Cơ quan hỗ trợ đăng ký”, một tổ chức có nhiệm vụ thay mặt các công ty để hỗ trợ người lao động nước ngoài.

Từ 1-4, lương lao động Việt tại Nhật sẽ bằng hoặc cao hơn người bản địa - Ảnh 2.

Thực tập sinh Việt Nam làm việc tại một công trường xây dựng ở Tokyo – Ảnh chụp màn hình

Theo hệ thống thị thực mới, lao động nước ngoài từ 18 tuổi trở lên sẽ được tiếp nhận theo hai loại thị thực.

Loại đầu tiên đòi hỏi người lao động có trình độ học vấn và kinh nghiệm nhất định, trong khi loại thứ hai dành cho nhóm có kỹ năng làm việc cao hơn. Để được cấp thị thực loại 1, có hiệu lực tới 5 năm, người lao động phải chứng minh có khả năng giao tiếp cơ bản bằng tiếng Nhật thông qua các bài kiểm tra tiếng Nhật.

Những người đã trải qua chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật kéo dài hơn 3 năm có thể đăng ký xin thị thực loại này mà không cần phải thực hiện các bài kiểm tra. Tuy nhiên, những người lao động trong nhóm này sẽ không được phép đưa gia đình tới Nhật Bản.

Trong khi đó, loại 2 có khung yêu cầu cao hơn, buộc người lao động phải vượt qua bài kiểm tra kỹ năng cấp độ cao hơn. Đổi lại, họ được phép đưa gia đình đi cùng, số lần gia hạn thị thực cũng không bị hạn chế, từ đó mở ra cơ hội định cư tại Nhật Bản.

Việc thay đổi chính sách thị thực có thể giúp Nhật Bản có thêm 340.000 lao động nước ngoài trong vòng 5 năm tới.

DUY LINH

Thị trường lao động Nhật đang thiếu hụt lao động

Thị trường lao động Nhật đang thiếu hụt lao động

16/03/2019 11:25 GMT+7

TTO – Nhật Bản đã thông qua luật quản lý xuất nhập cảnh sửa đổi và có hiệu lực từ tháng 4-2019. Dự luật này cho phép nền kinh tế Nhật tiếp nhận 345.000 lao động nước ngoài trong 5 năm tới, mở ra cơ hội cho lao động Việt Nam qua Nhật làm việc.

Thị trường lao động Nhật đang thiếu hụt lao động - Ảnh 1.

Người cao tuổi ở Nhật vẫn phải làm việc do thiếu hụt lao động trẻ – Ảnh: The Japan Times

“20 năm trước chúng tôi không bao giờ nghĩ mình lại cần lao động nước ngoài đến như vậy” – ông Ishikura Satoru, giám đốc Công ty Ishikura Men, tỉnh Niigata, chuyên sản xuất mì sợi lớn thứ ba ở Nhật Bản, giải thích với Tuổi Trẻ việc tại sao lại có đến 200 lao động người nước ngoài, chiếm đến gần 50% tổng số lao động ở công ty của ông.

Ông nói: “Các sản phẩm mì của chúng tôi nhiều năm qua được làm thủ công, nhu cầu tiêu thụ ngày càng nhiều trong khi thanh niên, lao động trẻ người Nhật không muốn làm những công việc tay chân, người già ngày càng già nên chúng tôi buộc phải tuyển thêm lao động nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt này”.

Thành phố của người già

Khi chúng tôi đến thành phố Takayama, tỉnh Gifu của Nhật, một trong những địa danh du lịch nổi tiếng, hầu như mọi dịch vụ tại thành phố này đều do người già cung cấp.

Phòng trọ có chừng 20 khách trọ nơi chúng tôi nghỉ ngơi, mọi việc từ đón tiếp khách, dọn dẹp, pha trà nước… đều do hai vợ chồng gần 70 tuổi đảm trách.

Khi được hỏi vì sao không thuê người, hai vợ chồng già cho biết con trai họ cũng như những người trẻ ở địa phương này đều dọn đến sống, làm việc ở các trung tâm kinh tế lớn nên “mọi việc đều do người già chúng tôi đảm nhiệm mà thôi”.

Tỉnh Gifu chưa được xem là tỉnh có tỉ lệ dân số già cao của đất nước với 27,2% dân số trên 65 tuổi vào năm 2014.

Đây cũng là một vấn đề mà Nhật Bản đang đối mặt trong bối cảnh thiếu hụt nguồn lao động, dân số già hóa, và sụt giảm dân số.

[bai 1] 1 4(read-only)

Ông Hiroki Tojo, giám đốc Okamura Home tại Việt Nam – Ảnh: LÊ NAM

Ở tỉnh Akita, nơi có tỉ lệ dân số già cao nhất trong số 47 tỉnh thành của Nhật, hiện có hơn 1/3 dân số trên 65 tuổi.

Theo dự đoán của Viện Nghiên cứu dân số và an sinh xã hội quốc gia của Nhật, đến năm 2040 con số này sẽ lên đến 43,8%.

Tuy nhiên, Akita không phải tỉnh duy nhất phải đối mặt với vấn đề này.

Đến năm 2040, toàn bộ 47 tỉnh thành của Nhật Bản sẽ có hơn 30% dân số trên 65 tuổi.

“Số lượng người Nhật gần hết độ tuổi lao động chiếm phần đông dân số Nhật.

Tình trạng dân số giảm, người trẻ không chịu kết hôn, và tỉ lệ dân số ở độ tuổi lao động thấp là nguyên nhân chính dẫn đến sự khan hiếm nguồn lao động” – ông Hiroki Tojo, giám đốc Công ty Okamura Home tại Việt Nam, chia sẻ với chúng tôi.

Công ty của ông ở Nhật là một trong số các công ty phải chọn cho mình việc tuyển dụng lao động nước ngoài để giải quyết vấn đề thiếu hụt người làm.

Dân số Nhật đang già hóa nhanh chóng buộc chính phủ cần đến người nhập cư để giải quyết sự suy giảm lực lượng lao động.

PGS.TS Carola Hommerich

Giới trẻ Nhật bớt đi tâm huyết

Với dân số già chiếm tỉ lệ ngày càng cao, Chính phủ Nhật Bản bị đặt trước những thách thức về lao động.

Tính đến tháng 1-2018, tỉ lệ thất nghiệp toàn quốc chỉ nằm ở mức 2,4%, thấp nhất trong 24 năm qua, nhưng có đến 40% vị trí làm việc tại Nhật không kiếm được người làm.

Một trong những phương án của chính phủ đưa ra là khuyến khích phụ nữ tham gia thị trường lao động.

Thống kê của Bộ Ngoại giao và truyền thông Nhật Bản cho thấy tháng 8 năm nay dù đã có đến 70% phụ nữ (tỉ lệ phụ nữ đi làm cao nhất trong lịch sử Nhật kể từ năm 1968) tham gia thị trường lao động nhưng tình hình vẫn không khả quan.

PGS.TS Carola Hommerich cho rằng chiến lược “nền kinh tế phụ nữ” (khuyến khích nữ giới đi làm) của Thủ tướng Shinzo Abe không thể cung ứng đủ nguồn lao động đang thiếu hụt trầm trọng của Nhật Bản.

“Dân số Nhật đang già hóa nhanh chóng buộc chính phủ cần đến người nhập cư để giải quyết sự suy giảm lực lượng lao động” – PGS.TS Carola Hommerich phân tích.

Thị trường lao động Nhật đang thiếu hụt lao động - Ảnh 5.

Một giải pháp để Nhật giải quyết vấn đề già hoá dân số là nâng tuổi về hưu lên 65 tuổi – Ảnh: Independent UK

Một vấn đề đáng lưu ý khác là sự thay đổi trong thái độ làm việc của người Nhật, đặc biệt là giới trẻ hiện nay so với những năm 80 của thế kỷ trước.

Theo giải thích của ông Koichi Takenaka – giám đốc chi nhánh ở Đồng Nai của Công ty Hondaplus Vietnam, giới trẻ Nhật hiện nay không còn tinh thần làm việc hăng hái, nỗ lực vì công ty như các thế hệ trước.

Ông cho rằng giới trẻ Nhật dường như rất thực dụng và không còn tâm huyết để tiếp tục học hỏi và làm việc, ngay cả khi các công ty tạo điều kiện cho họ đi học họ cũng sẽ không đi nếu không thấy được cái lợi về tiền.

Còn ông Hiroki Tojo lại cho rằng trong khi tố chất này đang dần trở nên hiếm ở các bạn trẻ người Nhật thì nó lại trở thành điểm mạnh ở các lao động nước ngoài tại Nhật Bản, đặc biệt là lao động Việt Nam.

Một trong những nơi mà sự thay đổi có thể được thấy một cách rõ rệt nhất là vùng đánh cá của tỉnh Hiroshima.

Cứ sáu lao động trong nước thì có một lao động nước ngoài – tỉ lệ lao động nước ngoài cao nhất Nhật. Tính độ tuổi 20 đến 40 thì một lao động là người nước ngoài.

Những thành phố của Nhật có người nước ngoài sinh sống cao nhất hiện nay là Yokohama (92.117 người), Nagoya (77.668), Kobe (46.831), quận Shinjuku thuộc Tokyo (43.354) và Kawasaki (38.651).

54% dân Nhật ủng hộ mở cửa cho lao động nước ngoài

Trong năm 2017, Nhật Bản đã có đến 1,28 triệu lao động nước ngoài trên tổng số 66 triệu lao động, theo báo The Guardian.

Được biết đến là một trong những xã hội khép kín nhất thế giới, trước đây người Nhật phản đối lao động nhập cư và chỉ chấp nhận người nước ngoài ở một số lĩnh vực như giảng dạy, y học, kỹ thuật và luật.

Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát gần đây thực hiện bởi Đài truyền hình TV Tokyo và báo Nikkei cho thấy có đến 54% người Nhật ủng hộ việc chính phủ mở cửa cho lao động phổ thông nước ngoài, trong khi chỉ 36% không ủng hộ.

Phần đông người ủng hộ là giới trẻ với suy nghĩ cởi mở hơn những thế hệ trước.

LÊ NAM – HÀ MY

Thị trường lao động Nhật Bản – Kỳ 4: Cơ hội lớn cho lao động Việt Nam

Thị trường lao động Nhật Bản – Kỳ 4: Cơ hội lớn cho lao động Việt Nam

19/03/2019 11:03 GMT+7
Thị trường lao động Nhật Bản - Kỳ 4: Cơ hội lớn cho lao động Việt Nam - Ảnh 1.

Thực tập sinh người Việt làm trong nhà máy may mặc của Công ty Hashimoto Sangyo ở tỉnh Okayama – Ảnh: Mainichi

Luật mới cho phép Nhật Bản tiếp nhận ít nhất 345.000 nhân công nước ngoài thuộc 14 lĩnh vực, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động đang ở mức báo động.

Theo luật mới này, những thực tập sinh (TTS) Việt Nam chuẩn bị kết thúc kỳ làm việc ba năm đã có cơ hội tích lũy kinh nghiệm, học tập tiếng Nhật, nâng cao tay nghề, rèn luyện tác phong tốt nếu có nguyện vọng tham gia chương trình mới sẽ có cơ hội tiếp tục tham gia chương trình Kỹ năng đặc thù liên tục trong năm năm.

Tính đến nay các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam đã đưa hơn 200.000 TTS sang Nhật làm việc, vượt qua Trung Quốc để trở thành nước dẫn đầu về số lượng TTS đang làm ở Nhật.

Tôi mong muốn có nhiều bạn trẻ từ 18-30 tuổi đủ khả năng, trình độ đi làm việc tại Nhật Bản và trở thành một lực lượng nhân sự chất lượng cao trong tương lai khi về lại Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước.

Ông LÊ LONG SƠN

Vững tiếng Nhật để hòa nhập

Với chỉ 10% dân số Nhật có khả năng sử dụng tiếng Anh trong công việc và chỉ 5% thật sự nói tiếng Anh lưu loát, muốn giao tiếp với người Nhật cần phải học tiếng Nhật.

Cô Hoa Phượng, người đã có hơn 10 năm sinh sống ở Nhật, hiện là nhân viên tuyển dụng TTS Việt Nam thuộc nghiệp đoàn Kyodo Kumiai Shiga JCL, tỉnh Shiga, cho chúng tôi biết ở các vùng quê, xa các thành phố và trung tâm kinh tế lớn, đang thiếu lao động đặc biệt nhưng vốn sống khép kín nên người Nhật có mối lo ngại là người lao động nhập cư sẽ tràn vào nước Nhật mang theo văn hóa và ngôn ngữ khác biệt.

Vì vậy khó khăn lớn nhất với các TTS nước ngoài khi làm việc ở Nhật chính là khả năng hiểu và giao tiếp bằng tiếng Nhật.

Các tờ báo lớn ở Nhật cũng cho biết chính phủ nước này quyết định sẽ tổ chức kiểm tra trình độ tiếng Nhật dành cho các TTS đến từ các nước châu Á, đặc biệt là TTS đến từ các nước Đông Nam Á.

Bản thân các công ty Nhật cũng muốn các TTS Việt Nam vững tiếng Nhật và khuyến khích họ học bằng nhiều hình thức.

Ông Ishikura Satoru – giám đốc Công ty sản xuất mì Ishikura Men, công ty sản xuất mì lớn thứ ba của Nhật, có trụ sở chính đặt ở tỉnh Niigata – cho biết công ty ông khuyến khích các TTS có kết quả tốt trong kỳ thi kiểm tra tiếng Nhật bằng cách cho tăng lương.

Tổng giám đốc Hiroki Tojo của Công ty Okamura Home tại Việt Nam cho biết công ty ông đài thọ toàn bộ chi phí tham dự kỳ thi Năng lực Nhật ngữ (khoảng 1,1 triệu đồng) và tăng lương cho những bạn nào thi đậu.

Trong khi đó, tổng giám đốc Hondaplus Vietnam, ông Koichi Takenaka, chia sẻ dù không đài thọ chi phí thi, nhưng công ty ông tổ chức lớp Nhật ngữ hai lần một tuần cho các TTS tham gia học miễn phí, khuyến khích họ phát triển khả năng ngôn ngữ.

Đã từng đưa nhiều TTS Việt sang Nhật làm việc trong các năm qua, ông Lê Long Sơn, tổng giám đốc Công ty TNHH Esuhai (Q.Tân Bình, TP.HCM), cho biết luật mới đưa ra của Nhật có những yêu cầu nhất định về kinh nghiệm, ngoại ngữ, chuyên môn.

“Các bạn TTS phải có một sự chuẩn bị, đầu tư kỹ cho việc học tiếng Nhật và trang bị kỹ năng, kiến thức về văn hóa làm việc tại công ty Nhật Bản. Sau năm năm làm việc, các TTS có cơ hội tiếp tục làm việc tại Nhật Bản nếu thi đậu các kỳ thi bắt buộc”, ông nói.

Ông Sơn cũng kỳ vọng những bạn trẻ chuẩn bị làm TTS phải biết nắm lấy cơ hội này và tự bản thân phải có định hướng tương lai đúng đắn để phát triển lâu dài.

PGS.TS Carola Hommerich, chuyên gia nghiên cứu Nhật Bản, nhận định: “Không biết rõ ngôn ngữ sẽ hạn chế sự hòa nhập của các bạn, bao gồm việc giao tiếp với đồng nghiệp và hiểu rõ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, trong trường hợp các bạn có con, nếu không nắm rõ tiếng Nhật sẽ rất khó để con cái mình có được một nền giáo dục tốt”.

Bà cho rằng Chính phủ Nhật cần quan tâm giúp đỡ các TTS nước ngoài học tiếng Nhật để họ nhanh chóng xóa bỏ các rào cản, dễ hòa nhập môi trường Nhật Bản.

Thị trường lao động Nhật Bản - Kỳ 4: Cơ hội lớn cho lao động Việt Nam - Ảnh 3.

Công ty Esuhai tổ chức các lớp học đứng để TTS Việt Nam làm quen với môi trường khắc nghiệt trước khi đến Nhật làm việc – Ảnh: LÊ NAM

Sẵn sàng về nông thôn

Thành phố Shiga nơi cô Hoa Phượng sinh sống và làm việc cách Tokyo hơn hai tiếng đi xe lửa. Nơi đây không còn nhiều thanh niên do họ bỏ lên các thành phố lớn, vì vậy Shiga cũng như nhiều nơi khác tương tự rất cần lao động. Đây chính là những nơi các doanh nghiệp Nhật cần tuyển dụng TTS nước ngoài.

Báo Nikkie cho biết Chính phủ Nhật đã đề xuất đưa lao động nhập cư ra ngoài rìa các thành phố lớn, các vùng hẻo lánh – những nơi đang thiếu lao động và không được người làm chính sách ngó ngàng đến.

Vẫn theo báo Nikkie, chương trình thị thực mới của Nhật bao gồm nhiều sáng kiến hỗ trợ lao động nước ngoài về ngôn ngữ, cũng như thiết lập khoảng 100 trung tâm trợ giúp rải khắp đất nước để giải quyết nhu cầu của họ.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Hiroki Tojo cho rằng các TTS cần xác định cho mình mục tiêu tương lai khi qua Nhật thay vì chỉ để kiếm tiền, có được khoản dành dụm mang về nước. Có như vậy mới có thể hi vọng phát triển được sự nghiệp sau này.

Cũng từ suy nghĩ đó, ông Lê Long Sơn cho rằng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ hiện nay, Việt Nam rất cần có một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, có tay nghề chuyên môn, tác phong và ngoại ngữ tốt.

“Tôi mong muốn có nhiều bạn trẻ từ 18-30 tuổi đủ khả năng, trình độ đi làm việc tại Nhật Bản và trở thành một lực lượng nhân sự chất lượng cao trong tương lai khi về lại Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước”.

Thị trường lao động Nhật Bản - Kỳ 4: Cơ hội lớn cho lao động Việt Nam - Ảnh 4.

Trong các lớp học Nhật ngữ tại thành phố Sakai, tỉnh Osaka, học viên người Việt chiếm đa số – Ảnh: Nikkei Asian Review

14 ngành nghề Nhật Bản tiếp nhận

Xây dựng, đóng tàu/công nghiệp tàu thủy, nông nghiệp, hộ lý, lưu trú, sản xuất thực phẩm/đồ uống, nhà hàng, ngư nghiệp, vệ sinh tòa nhà, công nghiệp rèn đúc, máy móc công nghiệp, điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ôtô và hàng không.

Chính phủ Nhật Bản sẽ cấp visa kỹ năng đặc thù (loại 1) có thời hạn tối đa năm năm cho lao động trong 14 ngành nghề nêu trên và visa kỹ năng đặc thù (loại 2) không giới hạn thời gian cho những lao động giàu kỹ năng trong năm ngành nghề: xây dựng, đóng tàu, sửa chữa bảo dưỡng ôtô, hàng không và lưu trú khách sạn.

(Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – thương binh và xã hội)

Kỳ tới: Chuyến đi thay đổi cuộc đời

LÊ NAM – HÀ MY
098 111 7980
Zalo 098 111 7980
+84 98 111 7980